Tỷ lệ học sinh giỏi, giỏi quá cao nhưng vẫn phải đào tạo lại
Tại Hội nghị Giáo dục năm 2023: “Thể chế, chính sách nâng cao chất lượng giáo dục đại học” do Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và Đại học Quốc gia Hà Nội tổ chức, ông Dương Xuân Phương – đại diện Tập đoàn Viễn thông Quân đội Tập đoàn Viễn thông Quân đội chia sẻ về những bất cập trong đào tạo đại học nhìn từ góc độ doanh nghiệp.
Bạn đang xem: Nhiều SV tốt nghiệp xuất sắc, giỏi nhưng doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại
Ông Dương Xuân Phương cho biết, chất lượng đào tạo đại học nước ta tương đối tốt nhưng vẫn còn một số hạn chế.
![]() |
Ông Dương Xuân Phương – Đại diện Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel chia sẻ tại Hội thảo. |
Đầu tiên là khoảng cách xa giữa đào tạo đại học và nhà tuyển dụng (cụ thể là doanh nghiệp). Trong số 2.000 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, có bằng loại giỏi, Viettel chỉ tuyển được 100 sinh viên.
Đặc biệt, khi đánh giá lại, 75% sinh viên nhận thấy mình chỉ đáp ứng được 75% nhiệm vụ của doanh nghiệp; 2% sinh viên đánh giá đáp ứng được 90% nhu cầu của doanh nghiệp, số sinh viên còn lại phải được doanh nghiệp đào tạo lại.
Bên cạnh đó, sinh viên tốt nghiệp cũng chưa thực sự đáp ứng được một số kỹ năng mềm, kỹ năng chuyên môn theo nhu cầu của doanh nghiệp.
Thứ hai, còn bất cập trong việc đánh giá, phân loại sinh viên tốt nghiệp. Ông Dương Xuân Phương cho biết, hiện tỷ lệ học sinh tốt nghiệp loại khá, giỏi, xuất sắc lên tới 99%, mất cân đối và còn nhiều bất cập so với trước đây. Vấn đề là nhiều sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi vẫn phải đào tạo lại.
Thứ ba, chuyển đổi số còn chậm, chưa đồng bộ giữa các trường đại học.
Đại diện Tập đoàn Viễn thông Quân đội Viettel đưa ra 3 kiến nghị.
Một làcần đổi mới nội dung các chương trình đào tạo đại học sát với thực tế của doanh nghiệp hơn, cần đào tạo theo tín hiệu thị trường, tín hiệu doanh nghiệp.
Cần có cơ chế chính sách liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp để phát huy hiệu quả Ví dụ, có một học kỳ kinh doanh để doanh nghiệp có thể tham gia vào phần đào tạo của các trường đại học. Và các doanh nghiệp, tập đoàn lớn cũng có thể tham gia đào tạo cấp chứng chỉ cho các trường đại học.
Thứ hai, thúc đẩy chuyển đổi số mạnh mẽ, giáo dục toàn diện và thực chất trong các trường đại học, có khả năng đưa vào sử dụng các hệ thống công nghệ để liên kết trong các trường và giữa các trường đại học,
Xem thêm : Phản ứng HNO3 ra NO2: Công thức, cơ chế và ứng dụng
Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo sinh viên, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ mà còn phải là trường đại học đào tạo suốt đời, có các học phần, chương trình đào tạo ngắn hạn và dài hạn dành cho những người đã đi làm và tiếp tục học lên cao. nâng cao trình độ chuyên môn, tạo không gian học tập suốt đời
Ngày thứ bacó cơ chế chính sách chung để đánh giá tính chất chương trình và chất lượng đào tạo sinh viên, không để tỷ lệ sinh viên giỏi, giỏi quá cao như hiện nay, sau khi về doanh nghiệp sẽ đánh giá, đánh giá lại. Một lần nữa, đặc biệt là phải đánh giá lại theo chương trình doanh nghiệp, chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn.
“Cái bắt tay” giữa trường đại học và doanh nghiệp còn hạn chế
Tại hội nghị bàn về mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp, Phó giáo sư, tiến sĩ Lưu Bích Ngọc – Chánh văn phòng Hội đồng Giáo dục và Phát triển con người Quốc gia cho rằng, hợp tác giữa doanh nghiệp ngành và trường đại học là xu hướng tất yếu, khách quan. Trên thế giới, mối quan hệ này bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ XX và mang lại nhiều lợi ích cho cả khu vực doanh nghiệp và khu vực trường đại học.
![]() |
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lưu Bích Ngọc – Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển Con người chia sẻ tại Hội nghị. |
Muốn làm tốt ngành tài chính, nhân sự đại học đáp ứng nhu cầu xã hội, cần có sự “bắt tay” giữa doanh nghiệp và trường đại học.
Phó giáo sư Lưu Bích Ngọc cho biết, năm 2021, theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong số 135 cơ sở giáo dục đào tạo gửi báo cáo (50% tổng số cơ sở đào tạo) chỉ có 40% số trường đã công bố quan hệ hợp tác của trường với các doanh nghiệp.
Trong đó, có 6.126 doanh nghiệp được liệt kê là hợp tác với trường. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ doanh nghiệp trên thị trường lao động Việt Nam, chỉ có 4% doanh nghiệp hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học trong nghiên cứu khoa học, 29% doanh nghiệp tham gia hợp tác. hội thảo và thảo luận; Phần lớn các hoạt động hợp tác của trường đại học với doanh nghiệp là dành cho sinh viên đến học tập (90%), 70% hoạt động hợp tác là tài trợ, học bổng và chỉ có 30% tham gia phát triển chương trình. %.
Như vậy, mức độ “bắt tay” giữa trường đại học và doanh nghiệp còn rất hạn chế.
Về mối quan hệ giữa Nhà nước – cơ sở giáo dục đại học – doanh nghiệp nhằm tạo dựng mối quan hệ văn hóa “3 ngôi nhà” trong thời kỳ mới, ở các nước phát triển, Nhà nước đã đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo, tạo môi trường để trường đại học và doanh nghiệp liên kết với nhau. . Đến nay, đã có 21 chính sách được ban hành nhằm hỗ trợ và thúc đẩy mối quan hệ này.
Ở Việt Nam, xét về chính sách đã được thực hiện hơn 10 năm nay, nếu nhìn lại Nghị quyết Đại hội VI, Trung ương Đảng khóa XI đã khẳng định các trường đại học phải là trung tâm nghiên cứu. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học công nghệ, chuyển giao, ứng dụng công nghệ vào sản xuất và đời sống, liên kết đào tạo giữa trường đại học và doanh nghiệp.
Nghị quyết 29 cũng nêu rõ: cần khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt động đào tạo.
![]() |
Hội nghị Giáo dục 2023: “Thể chế, chính sách nâng cao chất lượng giáo dục đại học”. |
Tất cả các chính sách này đã được thể chế hóa. Năm 2018, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết phải thúc đẩy hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp.
Như vậy, chúng ta có chủ trương chính sách nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc về chính sách. Các luật liên quan khi thực hiện “bắt tay” giữa trường đại học và doanh nghiệp vẫn còn chồng chéo. Các vấn đề xuyên biên giới (như Luật Tài sản công và Luật Doanh nghiệp) cho đến nay vẫn chưa được giải quyết.
Các trường đại học gặp khó vì không thể “bắt tay” doanh nghiệp Doanh nghiệp cũng gặp khó khăn khi muốn đầu tư hoặc có quỹ đầu tư cho trường đại học nhưng không thể thực hiện được.
Phó giáo sư Lưu Bích Ngọc đưa ra 4 kiến nghị, đề xuất:
Thứ nhất, cần có nhóm giải pháp về cơ chế chính sách để cải thiện môi trường thông tin, bởi muốn hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp phải có cơ chế chia sẻ thông tin, quảng bá thông tin, thu hút sự quan tâm. doanh nghiệp quan tâm, doanh nghiệp thấy được lợi ích khi hợp tác và các trường đại học cũng phải thể hiện được năng lực của mình.
Vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý giáo dục đại học và thông tin thị trường lao động; hai hệ thống này phải được kết nối với nhau dưới sự phối hợp thống nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thứ hai, cần có nhóm chính sách tạo động lực để các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp hoàn thiện chính sách thúc đẩy thực hiện khung trình độ quốc gia, mở rộng nguồn tài trợ hiện có và các dự án hỗ trợ. Có.
Thứ ba là nâng cao năng lực của các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp, đặc biệt là tăng cường thực hiện quan hệ đối tác công tư PPP.
Thứ tư, chúng ta cần một nhóm chính sách để thúc đẩy các trường đại học tự chủ và đổi mới. Trong quy hoạch của mình, chúng ta không chỉ dừng lại ở các trường đại học quốc gia, đại học vùng, đại học, cao học mà cần mô tả rõ ràng hơn các tiêu chí đối với trường đại học nghiên cứu, trường đại học đổi mới sáng tạo, từ đó đưa ra các tiêu chí cho trường đại học nghiên cứu và đại học đổi mới sáng tạo. có chính sách đầu tư, mở rộng quyền tự chủ để tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp.
TS Nguyễn Việt Bằng (Đại học Kinh tế TP.HCM) cho biết, hiện tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học ở Việt Nam cao hơn Thái Lan, Indonesia nhưng thấp hơn châu Mỹ và nhiều nước châu Âu. Một châu Á khác.
Nhưng vấn đề là tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam cao so với các nước khác.
TS Nguyễn Viết Bằng nhận xét, hiện nay sinh viên thiếu những kỹ năng cần thiết so với nhu cầu của thị trường lao động, sinh viên thiếu kỹ năng thực hành.
Chương trình đào tạo của Việt Nam còn khoảng cách so với thế giới và nhu cầu của nhà tuyển dụng; Phương pháp giảng dạy còn thụ động.
Phạm Minh
Nguồn: https://saugiohanhchinh.vn
Danh mục: Giáo Dục